Trong thực tiễn xét xử, việc xác định thế nào là “hành vi chống trả rõ ràng quá mức cần thiết” luôn là vấn đề phức tạp, đòi hỏi sự đánh giá toàn diện, khách quan từng tình huống cụ thể. Nhằm bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật và hướng dẫn rõ ràng hơn cho các cơ quan tiến hành tố tụng, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Nghị quyết số 04/2025/NQ-HĐTP.
1. Phòng vệ chính đáng là gì?
Theo khoản 1 Điều 22 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi 2017), phòng vệ chính đáng là hành vi của người:
- Nhằm bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của mình, của người khác
- Hoặc bảo vệ lợi ích của Nhà nước, cơ quan, tổ chức
- Chống trả lại một cách cần thiết đối với người đang xâm phạm các lợi ích kể trên
Hành vi phòng vệ chính đáng không phải là tội phạm.
2. Khi nào bị coi là vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng?
Khoản 2 Điều 22 Bộ luật Hình sự nêu rõ: hành vi vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng là hành vi chống trả rõ ràng quá mức cần thiết, không phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi xâm hại.
Khi vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, người thực hiện phải chịu trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm c khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
3. Áp dụng tình tiết giảm nhẹ “Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng”
Nghị Quyết 04/2025/NQ-HĐTP (có hiệu lực thi hành ngày 15/11/2025) đã hướng dẫn, làm rõ các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ của Bộ luật Hình sự. Theo đó, căn cứ khoản 3 Điều 2 Nghị Quyết 04/2025/NQ-HĐTP việc áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng” được áp dụng trong các trường hợp:
Hành vi chống trả rõ ràng quá mức cần thiết là hành vi chống trả không tương xứng, có sự chênh lệch lớn so với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi xâm hại. Để xác định hành vi chống trả có “rõ ràng quá mức cần thiết” hay không phải xem xét, đánh giá khách quan, toàn diện, đầy đủ những tình tiết, sự kiện liên quan đến hành vi xâm hại và hành vi chống trả như: khách thể cần bảo vệ; mức độ thiệt hại mà hành vi xâm hại có thể gây ra; vũ khí, phương tiện, phương pháp thực hiện; nhân thân người xâm hại; tương quan lực lượng, cường độ, mức độ của hành vi xâm hại và hành vi phòng vệ; bối cảnh, hoàn cảnh, địa điểm xảy ra sự việc…
Ví dụ: Phạm Văn T dùng dao uy hiếp và đấm vào mặt Nguyễn Văn A. Để bảo vệ mình, A đã giằng co với T, cướp dao và ném xuống sông. Khi T bỏ chạy, A vẫn đuổi theo và lấy đá đập nhiều lần vào người T dẫn đến tổn thương cơ thể tỷ lệ 25%. Hành vi gây thương tích của A đã vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng. Trường hợp này, Nguyễn Văn A được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm c khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
3. Kết luận
Việc xác định giới hạn của phòng vệ chính đáng có ý nghĩa quan trọng trong việc đảm bảo công bằng và nhân đạo khi áp dụng pháp luật hình sự. Người dân cần hiểu rõ ranh giới giữa phòng vệ chính đáng và vượt quá giới hạn phòng vệ, để bảo vệ mình hợp pháp và tránh bị truy cứu trách nhiệm hình sự không đáng có.
———————————————————————————————————————————————————————————–
Hãy liên hệ để được tư vấn và hỗ trợ kịp thời:

