Trong các vụ án dân sự, việc chứng minh yêu cầu khởi kiện hay phản tố phụ thuộc rất lớn vào chất lượng và tính hợp pháp của chứng cứ do đương sự cung cấp. Trong bối cảnh công nghệ phát triển mạnh mẽ, ghi âm và ghi hình (video) ngày càng trở thành những loại chứng cứ phổ biến, giúp làm rõ diễn biến sự việc một cách trực quan, khách quan. Tuy nhiên, không phải mọi đoạn ghi âm, video đều mặc nhiên được Tòa án chấp nhận. Vậy pháp luật quy định như thế nào và trong những trường hợp nào các dữ liệu này được xem là chứng cứ hợp pháp trong vụ án dân sự? Bài viết dưới đây sẽ phân tích những điều kiện quan trọng để ghi âm, video được công nhận và sử dụng trong tố tụng.
1. Chứng cứ trong vụ án dân sự là gì?
Căn cứ Điều 93 Bộ luật tố tụng dân sự 2015, Chứng cứ trong vụ việc dân sự là những gì có thật được đương sự và cơ quan, tổ chức, cá nhân khác giao nộp, xuất trình cho Tòa án trong quá trình tố tụng hoặc do Tòa án thu thập được theo trình tự, thủ tục do và được Tòa án sử dụng làm căn cứ để xác định các tình tiết khách quan của vụ án cũng như xác định yêu cầu hay sự phản đối của đương sự là có căn cứ và hợp pháp.
2. Nguồn chứng cứ trong vụ án dân sự bao gồm những gì?
Căn cứ Điều 94 Bộ luật tố tụng dân sự 2015, nguồn chứng cứ bao gồm:
- Tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được, dữ liệu điện tử.
- Vật chứng.
- Lời khai của đương sự.
- Lời khai của người làm chứng.
- Kết luận giám định.
- Biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ.
- Kết quả định giá tài sản, thẩm định giá tài sản.
- Văn bản ghi nhận sự kiện, hành vi pháp lý do người có chức năng lập.
- Văn bản công chứng, chứng thực.
- Các nguồn khác mà pháp luật có quy định.
Như vậy, các file ghi âm, video mà đương sự thu thập được mới chỉ được xem là nguồn chứng cứ
3. Nguồn chứng cứ được xác định là chứng cứ khi nào
Căn cứ Điều 95 Bộ luật tố tụng dân sự 2015, nguồn chứng cứ được xác định là chứng cứ khi đáp ứng đủ điều kiện
- Tài liệu đọc được nội dung được coi là chứng cứ nếu là bản chính hoặc bản sao có công chứng, chứng thực hợp pháp hoặc do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cung cấp, xác nhận.
- Tài liệu nghe được, nhìn được được coi là chứng cứ nếu được xuất trình kèm theo văn bản trình bày của người có tài liệu đó về xuất xứ của tài liệu nếu họ tự thu âm, thu hình hoặc văn bản có xác nhận của người đã cung cấp cho người xuất trình về xuất xứ của tài liệu đó hoặc văn bản về sự việc liên quan tới việc thu âm, thu hình đó.
- Thông điệp dữ liệu điện tử được thể hiện dưới hình thức trao đổi dữ liệu điện tử, chứng từ điện tử, thư điện tử, điện tín, điện báo, fax và các hình thức tương tự khác theo quy định của pháp luật về giao dịch điện tử.
- Vật chứng là chứng cứ phải là hiện vật gốc liên quan đến vụ việc.
- Lời khai của đương sự, lời khai của người làm chứng được coi là chứng cứ nếu được ghi bằng văn bản, băng ghi âm, đĩa ghi âm, băng ghi hình, đĩa ghi hình, thiết bị khác chứa âm thanh, hình ảnh theo quy định tại khoản 2 Điều này hoặc khai bằng lời tại phiên tòa.
- …
Như vậy, file ghi âm, video được xem là chứng cứ trong tố tụng dân sự khi đáp ứng các điều kiện sau:
- Người xuất trình file ghi âm, video phải xuất trình văn bản trình bày về nguồn gốc tài liệu nếu họ là người tự thu âm, tự quay.
- Trường hợp không phải do họ tự thu âm, tự quay thì phải xuất trình văn bản có xác nhận của người đã cung cấp cho họ về nguồn gốc tài liệu hoặc văn bản liên quan đến việc thu âm, quay video.
4. Kết luận
Đoạn ghi âm, video chỉ được Tòa án xem xét là chứng cứ khi đáp ứng đầy đủ những điều kiện về tính hợp pháp, tính xác thực và tính liên quan theo quy định pháp luật. Điều này nhằm bảo đảm việc giải quyết vụ án được khách quan, đúng bản chất sự việc, đồng thời hạn chế việc lạm dụng dữ liệu ghi âm, ghi hình được thu thập trái phép. Việc hiểu rõ các yêu cầu pháp lý giúp đương sự chủ động, thận trọng hơn trong quá trình thu thập và sử dụng chứng cứ, từ đó nâng cao khả năng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trong tố tụng dân sự.
————————————————————————————————————————————————
Hãy liên hệ để được tư vấn và hỗ trợ kịp thời:

