Bắt đầu từ ngày 01/10/2025, Nghị định 207/2025/NĐ-CP của Chính phủ chính thức có hiệu lực. Điểm nổi bật nhất là cho phép phụ nữ độc thân được quyền làm thụ tinh trong ống nghiệm (IVF) khi có nguyện vọng, thay vì chỉ áp dụng cho các cặp vợ chồng như trước đây. Đây là một bước tiến quan trọng trong việc mở rộng quyền sinh sản cho phụ nữ Việt Nam.
1. IVF là gì và tại sao cần thiết?
Thụ tinh trong ống nghiệm (IVF – In Vitro Fertilization) là một trong những phương pháp hỗ trợ sinh sản tiên tiến nhất hiện nay. Quá trình này được thực hiện bằng cách:
-
Lấy noãn (trứng) và tinh trùng ra ngoài cơ thể.
-
Thụ tinh trong phòng thí nghiệm để tạo thành phôi.
-
Cấy phôi đã hình thành vào tử cung của người phụ nữ để phát triển thành thai nhi.
Phương pháp IVF có ý nghĩa đặc biệt với:
-
Những phụ nữ gặp tình trạng vô sinh, hiếm muộn (tắc vòi trứng, suy buồng trứng, rối loạn rụng trứng…).
-
Phụ nữ độc thân mong muốn có con mà không cần bạn đời.
2. Quy định mới về IVF cho phụ nữ độc thân – Nghị định 207/2025/NĐ-CP
Theo Nghị định 207/2025/NĐ-CP, các điểm chính liên quan đến phụ nữ độc thân được làm IVF bao gồm:
- Quyền làm IVF khi có nguyện vọng: Phụ nữ độc thân có nguyện vọng sinh con, đồng nghĩa với việc quyền tiếp cận kỹ thuật hỗ trợ sinh sản được mở rộng toàn diện.
- Điều kiện sức khỏe: Người thực hiện IVF phải có sức khỏe đủ điều kiện theo quy định của Bộ Y tế để đảm bảo an toàn trong suốt quá trình.
- Địa điểm thực hiện: Việc thực hiện IVF phải diễn ra tại các cơ sở y tế đã được Bộ Y tế cấp phép đủ điều kiện, có phòng xét nghiệm, đội ngũ chuyên gia và trang thiết bị phù hợp.
- Quy định về hiến và nhận tinh trùng, noãn, phôi: Việc hiến – nhận vật liệu sinh sản được thực hiện theo nguyên tắc vô danh, duy nhất một người hoặc một cặp vợ chồng sử dụng, nhằm bảo đảm tính hợp pháp và bí mật.
- Bảo mật thông tin: Các thông tin cá nhân, kết quả và quá trình điều trị đều được bảo mật nghiêm ngặt theo quy định pháp luật.
3. Điều kiện để phụ nữ độc thân được làm IVF
Theo Điều 5 Nghị định 207/2025/NĐ-CP quy định như sau:
Điều kiện của người nhận tinh trùng, nhận noãn, nhận phôi để sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản
(1) Người nhận tinh trùng phải là người vợ trong cặp vợ chồng đang điều trị vô sinh mà nguyên nhân vô sinh là do người chồng hoặc là phụ nữ độc thân có nhu cầu sinh con và noãn của họ bảo đảm chất lượng để thụ thai.
(2) Người nhận noãn phải là người Việt Nam hoặc người gốc Việt Nam, hoặc người nước ngoài có chồng là người Việt Nam hoặc người gốc Việt Nam và là người vợ trong cặp vợ chồng đang điều trị vô sinh mà nguyên nhân vô sinh là do người vợ không có noãn hoặc noãn không bảo đảm chất lượng để thụ thai.
(3) Người nhận phôi phải thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Người vợ trong cặp vợ chồng đang điều trị vô sinh mà nguyên nhân vô sinh là do cả người vợ và người chồng;
b) Người vợ trong cặp vợ chồng đang điều trị vô sinh mà vợ chồng đã thực hiện kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm nhưng bị thất bại, trừ trường hợp mang thai hộ vì mục đích nhân đạo;
c) Phụ nữ độc thân mà không có noãn hoặc noãn không bảo đảm chất lượng để thụ thai.
(4) Người nhận tinh trùng, nhận noãn, nhận phôi phải có đủ sức khỏe theo quy định của Bộ trưởng Bộ Y tế để thực hiện kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm.
Như vậy, phụ nữ độc thân nhận tinh trùng để sinh con bằng IVF phải đáp ứng điều kiện sau:
(1) Người nhận tinh trùng phải là phụ nữ độc thân có nhu cầu sinh con
(2) Người nhận tinh trùng, nhận noãn, nhận phôi phải có đủ sức khỏe theo quy định của Bộ trưởng Bộ Y tế để thực hiện kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm.
4. Điều kiện của cơ sở được phép thực hiện kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm là gì?
Theo Điều 10 Nghị định 207/2025/NĐ-CP quy định điều kiện của cơ sở được phép thực hiện kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm như sau:
(1) Là cơ sở khám bệnh, chữa bệnh đã được cấp giấy phép hoạt động theo hình thức bệnh viện có phạm vi hoạt động chuyên khoa phụ sản, có khả năng thực hiện xét nghiệm nội tiết sinh sản và các kỹ thuật cấp cứu sản khoa theo quy định của Bộ trưởng Bộ Y tế.
(2) Có đơn nguyên riêng để thực hiện kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm gồm các phòng: chọc hút noãn, chuyển phôi; lấy tinh trùng; xét nghiệm và lọc rửa tinh trùng; Lab thụ tinh trong ống nghiệm.
(3) Có các thiết bị y tế phù hợp với kỹ thuật hỗ trợ sinh sản mà cơ sở thực hiện, tối thiểu gồm: tủ cấy; tủ ấm; thiết bị lưu trữ tinh trùng, noãn, phôi; thiết bị ly tâm; máy siêu âm; kính hiển vi đảo ngược, kính hiển vi soi nối và thiết bị thực hiện các kỹ thuật vi thao tác; tủ an toàn sinh học cấp độ 2 trở lên.
(4) Nhân sự:
– Có tối thiểu 02 người hành nghề có chức danh bác sĩ với phạm vi hành nghề khám bệnh, chữa bệnh chuyên khoa sản phụ khoa và có văn bằng hoặc chứng nhận đào tạo về kỹ năng lâm sàng thụ tinh trong ống nghiệm kèm theo xác nhận đã trực tiếp thực hiện ít nhất 20 chu kỳ điều trị vô sinh bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm do cơ sở khám bệnh, chữa bệnh quy định tại khoản 5 Điều này cấp theo mẫu quy định tại Phụ lục I ban hành kèm theo Nghị định này;
– Có tối thiểu 02 người có trình độ đại học về một trong các lĩnh vực y, dược hoặc sinh học, công nghệ sinh học và có văn bằng hoặc chứng nhận đào tạo về kỹ năng thực hành trong Lab thụ tinh trong ống nghiệm kèm theo xác nhận đã trực tiếp thực hiện ít nhất 20 chu kỳ điều trị vô sinh bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm do cơ sở khám bệnh, chữa bệnh quy định tại khoản 5 Điều này cấp theo mẫu quy định tại Phụ lục I ban hành kèm theo Nghị định này;
– Các nhân sự quy định tại Khoản này phải là nhân sự làm việc toàn thời gian tại bệnh viện.
(5) Các văn bằng, chứng nhận đào tạo quy định tại khoản 4 Điều này phải được cấp bởi cơ sở khám bệnh, chữa bệnh trong nước hoặc nước ngoài.
– Trường hợp cơ sở cấp văn bằng, chứng nhận đào tạo là cơ sở trong nước thì cơ sở khám bệnh, chữa bệnh đó phải được cấp có thẩm quyền cho phép thực hiện kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm, đã thực hiện ít nhất 1.000 chu kỳ điều trị vô sinh bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm và là cơ sở cập nhật kiến thức y khoa liên tục.
– Trường hợp cơ sở cấp văn bằng, chứng nhận đào tạo là cơ sở ở nước ngoài thì cơ quan cấp phép thực hiện việc đánh giá thực tế năng lực thực hiện kỹ thuật trong quá trình thẩm định.
5. Ý nghĩa của việc mở rộng quyền IVF cho phụ nữ độc thân
Quy định mới không chỉ là bước tiến về mặt y tế mà còn có ý nghĩa sâu rộng về pháp lý, xã hội và nhân văn:
-
Khẳng định quyền sinh sản: Phụ nữ có thể làm mẹ mà không cần điều kiện kết hôn, thể hiện quyền làm chủ đối với cơ thể và tương lai của mình.
-
Bình đẳng giới: Xóa bỏ rào cản pháp lý, giúp phụ nữ độc thân có cơ hội tiếp cận IVF như phụ nữ đã kết hôn.
-
Tự chủ cá nhân: Phụ nữ chủ động chọn thời điểm, cách thức để trở thành mẹ, thay vì phụ thuộc vào tình trạng hôn nhân hay chỉ định y tế.
-
Phù hợp với xu hướng xã hội hiện đại: Thừa nhận sự đa dạng trong mô hình gia đình, phản ánh quan niệm tiến bộ về vai trò làm mẹ.
-
Cơ sở pháp lý rõ ràng: Trước đây, phụ nữ độc thân làm IVF có thể gặp khó khăn pháp lý; nay đã có hành lang pháp lý minh bạch và an toàn.
-
Bảo vệ quyền trẻ em: Trẻ sinh ra từ IVF được pháp luật công nhận, hưởng đầy đủ quyền lợi nhân thân như mọi trẻ em khác.
Kết luận
Như vậy,quy định phụ nữ độc thân được quyền làm IVF tại Nghị định 207/2025/NĐ-CP không chỉ mang lại quyền làm mẹ chính đáng cho phụ nữ độc thân, mà còn góp phần thúc đẩy bình đẳng giới, bảo đảm quyền con người và phản ánh sự tiến bộ của xã hội Việt Nam.
Hãy liên hệ để được tư vấn và hỗ trợ kịp thời:








